Mỹ là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc về tôn giáo từ khi còn là nước thuộc địa, các luồng nhập cư từ Anh và Đức đã tạo nên sự tự do về tôn giáo, sự ảnh hưởng đó vẫn còn đang tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Niềm tin tôn giáo của người Mỹ được thể hiện trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội, trong văn hóa và cả trong lĩnh vực chính trị. Hoa kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế giới không có quốc giáo. Theo mô hình của Luật tự do tôn giáo Virginia của Mỹ những người viết hiến pháp đã loại bỏ tất cả các tiêu chuẩn tôn giáo cho các chức vụ trong chính quyền và tu chính án thứ nhất đã ra quyết định cụ thể cấm chính phủ liên bang ban hành luật thiết lập tôn giáo hay cấm hành đạo, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tôn giáo. Các tôn giáo chính của Hoa Kỳ như Ki tô giáo chiếm 78.5%, không tôn giáo là 16.1%, do thái giáo 1.7%, phật giáo chiếm 0.7%, hồi giáo là 0.6%, Ấn độ giáo 0.4% còn lại là các tôn giáo khác chiếm khoảng 2%.
Kitô giáo
Nhà thờ chính tòa Pha Lê, một nhà thờ đại giáo đoàn Kháng Cách tại California, nay là một nhà thờ Công giáo
Kitô giáo là Tôn giáo lớn nhất Hoa Kỳ chiếm đại đa số dân số của Hoa Kỳ. Kitô giáo được du nhập theo các đoàn di dân châu Âu đầu tiên. Vì dân số đông và lịch sử bắt nguồn từ các cuộc di dân điều đó làm cho Hoa Kỳ có số lượng tín hữu Kitô giáo (và tín hữu Tin Lành) cao hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Những người nhập cư từ Bắc Âu đã đưa Tin Lành vào nước Mỹ.
Người Tây Ban Nha, Pháp và Anh đưa Công giáo đến. Những người Công giáo thường là người gốc Tây Ban Nha, Ireland, Scotland, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Pháp, Hungary, Đức và Liban.
Những người nhập cư từ Hy Lạp, Ukraina, Nga, Trung Quốc, Đông Âu, Trung Đông, Ethiopia, Nam Ấn Độ đã đem Chính thống giáo Đông phương và Chính thống giáo Cổ Đông phương đến Hoa Kỳ. Các giáo phái này đã vượt ra ngoài ranh giới của cộng đồng di dân và trở thành các cộng đồng đa sắc tộc.
Đền Salt Lake của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô tại Thành phố Salt Lake,Utah là một biểu tượng của Giáo hội
Không tôn giáo
Trong một cuộc thăm dò ý kiến do Tiến sĩ Ariela Keysar từ Đại học Thành phố New York (City University of New York) cho thấy thể loại “không tôn giáo” có mức độ tăng trưởng cao nhất trong số lượng và tỷ lệ. Trong con số này gồm có những người theo chủ nghĩa vô thần, bất khả thi, nhân văn và các thuyết khác không tin vào thần thánh. Con số đã tăng lên từ 14.3 triệu năm 1990 đến 34.2 triệu năm 2008, tăng tỷ lệ từ 8% đến 15%. Một cuộc khảo sát toàn quốc khác cho thấy con số người không tôn giáo đã lên đến 16.1%.
Do Thái giáo
Đền Beth-El ở Birmingham, Alabama
Người Do Thái đã có mặt tại Mỹ từ thế kỷ 17, nhưng họ không nhập cư với số đông cho đến thế kỷ 19, do sự đàn áp tại Đông Âu họ đã di cư vào Hoa kỳ và Khoảng 25% nhóm người này hiện đang sống tại Thành phố New York. Sau Kitô giáo và không tôn giáo, Do Thái giáo là nhóm tín ngưỡng lớn thứ ba tại Hoa Kỳ, mặc dù những người tự xưng là Do Thái giáo không nhất thiết phải theo các phong tục tập quán của tôn giáo này. Một con số đông người Mỹ tự xưng là người Do Thái căn cứ vào dân tộc hay văn hóa thay vì tôn giáo. Ví dụ, 19% người tự xưng là người Mỹ Do Thái tin rằng Thượng đế không tồn tại. Một cuộc khảo sát năm 2001 dự đoán rằng có khoảng 5.3 triệu người trưởng thành là người Do Thái, trong đó 2.83 triệu là người theo đạo, 1.08 triệu người không theo đạo nào và 1.36 triệu người theo đạo khác.
Hồi giáo
Trung tâm Hồi giáo Mỹ tại Michigan là đền thờ Hồi giáo lớn nhất Hoa Kỳ
Hồi giáo được du nhập vào Hoa Kỳ theo người nô lệ từ châu Phi đến. Khoảng 10% nô lệ từ châu Phi được đưa vào Hoa Kỳ là tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên, hầu hết đều cải đạo theo Kitô giáo và số tín đồ Hồi giáo là không đáng kể cho đến khi những người nhập cư từ các khu vực Ả Rập và Đông Á đông dần dẫn đến Tổ chức Hồi giáo đầu tiên là Cộng đồng Hồi giáo Ahmadiyya được thành lập vào năm 1921. Giữa thế kỷ 20, Hồi giáo được biết đến nhiều hơn qua tổ chức Nation of Islam, một nhóm có đông người da đen theo sau thập niên 1940, những thành viên tổ chức này gồm có Malcolm X và Muhammad Ali.
Nghiên cứu cho thấy những người theo Hồi giáo ở Hoa Kỳ có xu hướng hội nhập và giàu có hơn người Hồi giáo ở châu Âu. Tuy nhiên, các cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng mức độ hội nhập của họ thấp hơn các cộng đồng văn hóa và tôn giáo khác, đặc biệt là sau vụ tấn công khủng bố 11 tháng 9.
Theo một số nguồn, Hồi giáo là tôn giáo tăng trưởng nhanh nhất tại Hoa Kỳ. Phần lớn độ tăng trưởng này là nhờ vào số người nhập cư và tỷ lệ sinh sản khá cao. Khoảng một phần tư người Hồi giáo là người cải đạo, hầu hết là người Mỹ gốc Phi. Có nhiều tranh cãi về con số tín đồ Hồi giáo tại Hoa Kỳ. Con số cao nhất được chấp nhận là 2.5 triệu người vào năm 2009 (chiếm 0.8% dân số). Một số nguồn khác ước tính con số này khá cao lên đến khoảng từ 6 đến 7 triệu người.
Phật Giáo
Phật giáo được du nhập vào Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 cùng với những người nhập cư từ Đông Á. Ngôi Chùa đầu tiên tại Hoa Kỳ được thành lập tại San Francisco năm 1853 bởi những người Mỹ gốc Hoa.
Cuối thế kỷ 19 những nhà truyền giáo từ Nhật Bản đến Hoa Kỳ, cùng vào thời điểm này, giới trí thức Hoa Kỳ bắt đầu để ý đến Phật giáo.
Người Mỹ nổi tiếng đầu tiên quy y đạo Phật là Henry Steel Olcott.
Một sự kiện góp phần tăng trưởng Phật giáo tại Hoa Kỳ là Nghị viện Các Tôn giáo Thế giới diễn ra năm 1893, có sự tham gia của các Phật tử từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, và Tích Lan.
Ước tính số Phật tử tại Hoa Kỳ là vào khoảng 0.7% được CIA và PEW công bố.